Cuộc đời Phêrô Phạm Bá Trực

Phêrô Phạm Bá Trực tên thật là Phạm Bá Trực, PhêrôTên Thánh của ông, ông sinh ngày 21 tháng 11 năm 1898 tại làng Bạch Liên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Quê nhà ông là những xứ đạo cổ được đón nhận Tin Mừng do giáo sĩ Alexandre de Rhodes rao giảng từ rất sớm[2]. Phạm Bá Trực được gia đình gửi vào chủng viện của Giáo phận Tây Đàng Ngoài.

Tu lập

Năm 1916, theo chủ trương của Tòa Thánh, mỗi giáo phận chọn 1 hay 2 chủng sinh xuất sắc để gửi sang Rôma đào tạo chức sắc cao cấp cho giáo hội. Do học thông minh và đạo đức, thầy Phạm Bá Trực được Giám mục Hà Nội là Pierre Jean Marie Gendreau tuyển chọn và gửi đi học trường Truyền giáo ở Rôma[1].

Năm 1925, Thầy Phạm Bá Trực tốt nghiệp với 3 bằng Tiến sĩ về Giáo luật, Thần học và Văn chương tại Rôma và trở về Việt Nam. Với thành tích này, ông được vua Khải Định ngỏ ý muốn tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh, nhưng ông đã khiêm nhường từ chối[3].

Năm 1925 - 1927 giáo sư giảng dạy đại chủng viện Hoàng Nguyên, Sở Kiện Tây đàng ngoài , cuối năm 1927 làm chánh xứ Kẻ Sét ở Làng Tám, Hà Nội. Tại đây, linh mục Trực đã mở một trường dạy văn hóa cho thanh thiếu niên. Năm 1927, linh mục Trực đem một người cháu ở quê Phát Diệm lên học và nhận nuôi dưỡng đỡ đầu. Người cháu mà ông nhận đỡ đầu và nuôi dưỡng đó là Phạm Đình Tụng, sau này là Hồng y Tổng Giám mục giáo tỉnh Hà Nội[4]. Linh mục Phạm Bá Trực dịch nhiều sách giáo lý để phổ biến cho cộng đoàn. Năm 1929, ông được giao quản thêm xứ Khoan Vĩ ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ở giáo xứ này cho đến khi đầu năm 1945 [3] ông rời Khoan Vĩ, về Hà Đông và từ đây linh mục trực tiếp tham gia kháng chiến.

Hoạt động chính trị

Năm 1946, khi cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I diễn ra, linh mục Phạm Bá Trực xin phép Bề trên bản quyền là Giám mục Chaize Thịnh được tham gia ứng cử. Giám mục Chaize đồng ý và sau đó linh mục Phạm Bá Trực đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I. Tại quốc hội, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội vào tháng 3 năm 1946[1].

Tháng 5 năm 1947, linh mục Trực được bầu là Phó Ban Thường trực Quốc hội tương đương Phó Chủ tịch Quốc hội hiện nay. Năm 1951, tại Đại hội thống nhất Việt Minh- Liên Việt, linh mục Phạm Bá Trực được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc và Ủy viên Hội Hữu nghị Việt – Hoa.

Thời gian kháng chiến, linh mục Trực di chuyển nhiều giáo xứ như Kẻ Chuôn, Thái Nguyên, Hà Đông. Ông vừa mục vụ và vừa chăm lo truyền nghề đan lát, làm nón cho cư dân trong vùng[3].

Phiên họp Hội đồng chính phủ 12/10/1954 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trù trì, đã xét truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và ngày 30/8/1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho linh mục Phạm Bá Trực.

Qua đời

Linh mục Phạm Bá Trực mất vì bệnh tim ngày 5 tháng 10 năm 1954 tại Đại Từ, Thái Nguyên. Lễ tang của ông được tổ chức theo nghi lễ quốc gia[1]. Trong lễ truy điệu ông có 3 điếu văn của Chủ tịch Liên Việt Tôn Đức Thắng, của Chủ tịch Ủy ban Liên lạc kháng chiến Liên khu III Vũ Xuân Kỷ và điếu văn của chủ tịch Hồ Chí Minh viết do Bộ trưởng Phan Anh thay mặt ông Hồ đọc lời điếu[2].

Sau đó vào lúc 9 giờ 30 ngày 7 tháng 10 năm 1954, lễ an táng linh mục Phạm Bá Trực được tổ chức tại nhà thờ An Huy, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên[5].

Ngày 20 tháng 11 năm 1954, thánh lễ cầu nguyện cho linh mục Phạm Bá Trực đã được tổ chức trang trọng ở Nhà thờ lớn Hà Nội với sự có mặt của các lãnh đạo cao cấp của giáo hội Công giáo và chính quyền Việt Nam cùng hơn 4000 giáo dân[2].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phêrô Phạm Bá Trực http://www.hophamvietnam.org/1/index.php?mn=newsde... http://www.tonggiaophanhanoi.org/tin-tuc/tin-giao-... http://www.thuvienbrvt.com.vn/pages/Gioi-thieu-tai... http://www.thuvienbrvt.com.vn/pages/Gioi-thieu-tai... http://www.thuvienbrvt.com.vn/pages/Gioi-thieu-tai... http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1... http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/6... http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/255/0/2... http://btgcp.gov.vn/Popup.aspx/vi/66/0/cid=240/nid... http://thainguyentv.vn/default.aspx?tabid=456&ID=6...